Những bênh thường gặp ở gia cầm. Phần tiếp theo....ảnh: Các bác sĩ thú y đang kiểm tra bệnh cho gà 3. Bệnh Gumboro a. Nguyên nhân: - Do virus thuộc họ Birnaviridae, serotype 1 gây ra trên hầu hết các dòng gà, thường gặp trên gà Leghorn. Gà đẻ thường nhạy cảm hơn gà thịt, gà địa phương ít bị bệnh hoặc bệnh không nặng như gà công nghiệp. >> Tìm hiểu đá gà cựa sắt b. Triệu chứng phát bệnh: - Thời gian phát bệnh từ 2-3 ngày. - Bệnh xuất hiện một cách thình lình và mãnh liệt với triệu chứng đầu tiên là gà suy nhược, lờ đờ, gà mổ vào hậu môn của nhau, những lông xung quanh hậu môn bị nhiễm bẩn với những phân lỏng màu trắng đục có khi lẫn máu, gà suy sụp, liệt cùng với mất nước, xù lông. - Tỉ lệ gà chết có thể từ 50% đến 100% vào ngày thứ 3 sau khi bị nhiễm bệnh. ảnh: Thận sưng và túi Brusal chứa casein thường gặp trong bệnh Gumboro. c. Diễn biến của bệnh: - Gia cầm chết khô, cơ ngực sậm màu, ống dẫn tiểu nhiều urat. - Hiện tượng xuất huyết trên cơ ngực, cơ đùi, lông xơ xác, chân khô. - Thận bị hư thối hại dưới nhiều dị dạng khác nhau. - Từ ngày thứ ba sau khi nhiễm bệnh, túi Fabricius bị thủy thủng, xung huyết, gia tăng kích thước và trọng lượng. Ơ ngày thứ tư, bệnh tích tăng lên, túi Fabricius tăng gấp 2-3 lần thể tích bình thường. Ngày thứ năm, những bệnh tích viêm giảm dần, túi Fabricius giảm kích thước rồi bắt đầu bất dưỡng. Từ ngày thứ tám, trọng lượng túi Fabricius giảm từ 1/3 đến 1/6 trọng lượng túi Fabricius trở lại bình thường. d. Cách trị bệnh: - Phòng bệnh bằng vaccin theo đúng lịch định kỳ, vệ sinh sát trùng chuồng trại bằng PIVIDINE hoặc ANTIVIRUS - FMB với liều 2 - 3ml/1 lít nước. - Thường xuyên bổ sung ANTI - GUMBO: 2g/1 lít nước uống để tăng sức kháng bệnh. - Bệnh do virus chưa có thuốc đặc trị. Khi phát bệnh ra cần thực hiện các biện pháp sau đây để hạn chế tỉ lệ chết: - Xử lý cách ly gia cầm bệnh và gia cầm khỏe mạnh. - Vệ sinh chuồng trại, dụng cụ chăn nuôI bằng PIVIDINE hoặc ANTIVIRUS-FMB . - Bổ sung ANTI-GUMBO: 2g/1 lít nước uống giúp tăng cường sức đề kháng cho gia cầm. >> tìm hiểu gà đá ăn tiền 4. Bệnh viêm phế quản truyền nhiễm : a. Nguyên nhân: - Bệnh gây ra do virus Coronavirus có một vài serotype thuộc nhóm này có chung kháng nguyên. b. Triệu chứng phát bệnh: - Với gia cầm từ 1 tháng tuổi, bệnh xảy ra rất nhanh trong toàn đàn với các triệu chứng như sau: sốt, ủ rũ, xù lông, kém ăn, thở khó, thở bằng miệng, chảy nước mũi, nước mắt. - Có trường hợp sau 1 – 2 tuần khỏi bệnh nhưng cũng có khi chết đến 40%. Gia cầm sau 1 tháng tuổi nếu bị chết, tỷ lệ chết thấp hơn: 2 – 5% nhưng gia cầm sẽ chậm lớn. >> tìm hiểu đá gà campuchia ảnh: dấu hiệu cho thấy gà bị bệnh viêm phế quản. c. Diễn biến của bệnh: - Các di chứng chủ yếu ở đường hô hấp như sau: phế quản, khí quản xuất huyết thành vệt dài hoặc xuất huyết điểm, túi khí xuất huyết hoặc có bã đậu, thường bệnh ghép với CRD nên rất khó phân biệt. - Đối với gia cầm đẻ, bệnh tích trên đường hô hấp không đặc trưng nhưng buồng trứng bị biến dạng hoặc xuất huyết, tỷ lệ đẻ giảm mạnh. Thận sưng to hoặc xuất huyết rất đặc trưng. d. Cách phòng trị: - Việc đầu tiên là phải vệ sinh sạch sẽ chuồng trại, phun thuốc sát trùng bằng: RTD – TC 01: 10ml thuốc pha với 2 lít nước sạch 1 lít thuốc pha loãng 200 lít nước phun được 1000 mét vuông. - RTD – IODIN 10%: 10ml thuốc pha với 1 lít nước sạch phun cho 10 mét vuông chuồng trại. 1 lít thuốc pha loãng 100 lít nước. - Dùng thuốc hỗ trợ sức lực , điện giải, chống xuất huyết, cung cấp năng lượng. - Ngày thứ 2: Sử dụng một trong các sản phẩm sau của RTD để điều trị các vi khuẩn kế phát ở đường hô hấp như: + RTD–AMPICOLI GOLD: Pha vào nước cho uống liên tục 3 – 5 ngày, với liều 1gram/ 2 lít nước uống. + RTD – HOHEN STOP: Pha vào nước hoặc trộn với thức ăn: 1gram/2lit hoặc 2,5g/ kg. + RTD – TYLOSIN 98%: với liều 1gram/ 1 lít nước uống. Dùng liên tục 3 – 5 ngày.
0 Comments
1. Bệnh cúm trên gia cầm: a. Nguyên Nhân: - Mầm bệnh do một loại virus có tên Avian influenza virus, thuộc họ Orthomyxoviridae, influenza virus type A, thuộc nhóm ARN, có vỏ bọc bằng lipid. >> tìm hiểu đá gà online Triệu chứng phát bệnh: - Thời gian nung bệnh thường biến đổi tùy theo liều và độc lực virus, đường xâm nhập, loài gia cầm mắc phải và môi trường nuôi dưỡng. Có 3 thể lâm sàng phổ biến: - Cúm có tính sinh bệnh cao. Tử số cao có thể 100%. - Với những triệu chứng: suy hô hấp, mắt sưng phù, chảy nhiều nước mắt, viêm xoang mũi, thủy thủng ở đầu. Mồng, mào, tích tím bầm. Tiêu chảy phân xanh. - Sau 3 ngày mắc bệnh, một số con còn sống sẽ có các biểu hiện: vẹo cổ, liệt chân, xệ cánh hoặc đi xoay vòng. - Trên những loài gia cầm non cái chết xẩy ra thình lình mà không có triệu chứng gì trước đó. Cúm có tính sinh bệnh ôn hòa: - Bệnh số cao, tử số có thể 50-70%. - Xáo trộn hô hấp, viêm túi khí, giảm đẻ nghiêm trọng hay ngừng đẻ, suy nhược. Cúm có tính sinh bệnh thấp: - Sự cảm nhiễm thầm lặng, xáo trộn hô hấp nhẹ, giảm đẻ. - Xù lông, giảm ăn, giảm uống. ảnh: Dấu hiệu gà bị cúm. >> tìm hiểu gà đá trực tuyến b. Diễn biến của bệnh: - Tím bầm và thủy thủng ở đầu. - Có bọng nước và lở loét ở mào gà. - Phù thủng quanh hốc mắt. Thủy thủng bàn chân gà. - Mào, tích bị tụ máu có màu xanh tím. - Máu xuất hiện quanh lổ huyệt. - Dạ dày cơ, dạ dày tuyến, cơ tim, cơ ngực, túi Fabricius, ruột non xuất huyết. - Túi khí, xoang phúc mạc, ống dẫn trứng chứa nhiều dịch xuất có sợi huyết. Trên vịt và gà tây thường thấy viêm xoang mũi. - Phổi xung huyết, một vài nơi có xuất huyết. - Da, mào, gan, thận, lách, phổi có những ổ hoại tử nhỏ c. Cách phòng chống bệnh: + Ở các vùng, trại có dịch: - Tiêu diệt toàn bộ gia cầm, thủy cầm bằng cách giết chết sau đó chôn hoặc đốt. Dọn sạch phân, chất độn chuồng. - Không giết gia cầm cũng như sử dụng sản phẩm gia cầm mắc bệnh. - Khi tham gia chống dịch nên trang bị đầy đủ các dụng cụ như mũ, áo, quần, ủng, kính che mắt, găng tay, khẩu trang… - Không tự ý nuôi gia cầm, thủy cầm trở lại khi chưa có sự cho phép của các cơ quan chức năng. - Sát trùng nơi chôn gia cầm, dụng cụ chăn nuôi, chuồng trại, phương tiện vận chuyển, quần áo lao động bằng 1 trong 2 chế phẩm PIVIDINE hoặc ANTIVIRUS-FMB. + Ở vùng, trại chưa có dịch: -Tiêm vaccin phòng bệnh cúm gia cầm. - Không tiếp xúc hoặc mua giống cũng như các sản phẩm của gia cầm, thủy cầm từ các vùng có dịch. - Hạn chế sự thăm viếng của khách vào trại. - Hạn chế chim hoang xâm nhập vào trại bằng cách dùng lưới vây xung quanh chuồng trại. -Thường xuyên vệ sinh sát trùng chuồng trại (3 ngày/1 lần), dụng cụ chăn nuôi, phương tiện vận chuyển bằng 1 trong 2 chế phẩm PIVIDINE hoặc ANTIVIRUS-FMB. -Tăng cường sức đề kháng bằng các vitamin nhất là vitamin C và các chất điện giải có tron VITAMIN C-SOL: 1g/2 lít nước uống hoặc ELECTROLYTE-C: 1g/1 lít nước uống >> tìm hiểu trực tiếp đá gà 2. Bệnh Newcastle: (hay còn gọi bệnh dịch tả) a. Nguyên nhân: - Gây ra bởi virus Paramyxovirus serotype 1 thuộc họ Paramyxoviridae. b. Triệu chứng: -Thời gian nung bệnh từ 3-4 ngày trong điều kiện thí nghiệm, 5-7 ngày có khi đến vài tuần trong điều kiện tự nhiên. - Thể quá cấp tính: chết trong 24-48 giờ với những triệu chứng chung: suy sụp, bỏ ăn, xù lông, gục đầu… + Thể cấp tính: - Giai đoạn xâm lấn: ủ rủ, bỏ ăn, ăn ít, thích uống nước, xã cánh đứng rù, tím da, xuất huyết hay thủy thủng mồng và tích gà. - Giai đoạn phát triển: có nhiều dịch nhờn chảy ra từ mũi và mỏ, gà thở khò khè, thở khó và càng nặng hơn khi tích tụ dịch viêm trên đường hô hấp làm cho gà khịt mũi, tiêu chảy phân lẫn máu, màu phân trắng xám mùi tanh, co giật, liệt nhẹ cổ, cánh hay ngón chân..v..v.Đối với gà đẻ thì giảm đẻ, trứng nhỏ, màu trắng nhợt. - Giai đoạn cuối cùng: gà chết trong vài ngày hay phát triển dần hướng đến khỏi bệnh sau một thời kỳ hồi phục dài để lại hậu chứng thần kinh (vẹo cổ, liệt…) và sự bất thường về đẻ trứng. + Thể bán cấp tính và mãn tính: - Diễn biến trong thời gian dài và những biểu hiện chung biến mất hay thầm lặng, biểu hiện xáo trộn hô hấp: viêm cata mắt, mũi. - Có thể liệt nhẹ nhưng không có triệu chứng về tiêu hóa. ảnh: Dạ dầy gà bị xuất huyết - triệu chứng bệnh dịch tả c. Diễn biến của bệnh: - Viêm túi khí, viêm màng kết hợp mắt và viêm phế quản. - Khí quản bị viêm và xuất huyết. Viêm túi khí dày đục chứa casein. - Ruột có những vùng xuất huyết hay hoại tử định vị chủ yếu ở nơi tạo lympho thường ở hạch amydale manh tràng. -Thực quản, dạ dày tuyến, dạ dày cơ xuất huyết trên bề mặt. d. Cách phòng chống bệnh: - Đây là bệnh do virus nên không có thuốc đặc trị hữu hiệu. Phòng bệnh là biện pháp tốt nhất để dịch bệnh không xảy ra. - Chủng ngừa vaccin Newcastle theo đúng liệu trình. - Không mua gà bệnh từ nơi khác về để tránh lây lan. - Vệ sinh chuồng trại định kỳ bằng 1 trong 2 chế phẩm ANTIVIRUS-FMB hoặc PIVIDINE 1. Thu nhặt và bảo quản trứng. 2. Chọn trứng ấp Vỏ trứng sạch, không rạn vỡ, buồng không khí (ở đầu to quả trứng) nhỏ, không có vệt máu hoặc dị vật ở trong. Ấp trứng nhân tạo là dùng máy ấp để ấp trứng. Nguyên lý của máy ấp là tạo dựng chế độ nhiệt, độ ẩm và thoáng khí giống như trường hợp dùng gà ấp trứng. Nguồn nhiệt dùng cho máy ấp có thể là nguồn điện hoặc hơi nước. Một máy ấp mỗi đợt ấp có thể ấp được 1000 quả (thông thường 300-400 đến 600-700 quả) nếu ấp bằng hơi nước, hoặc ấp vài ba nghìn quả đến 10.000 quả nếu ấp bằng nguồn điện có rơ-le tự ngắt điện. >> cập nhật tin đá gà trực tuyến Nếu dùng máy ấp trứng bằng hơi nước, cần theo dõi thường xuyên chế độ nhiệt, ẩm để kịp thời xử lý những trường hợp bất thường xảy ra như tăng giảm nhiệt độ, thiếu độ ẩm v.v.... a. Khử trùng b. Các điều kiện cần thiết trong quá trình ấp Độ ẩm: Trong giai đoạn ấp (1-18 ngày) độ ẩm thích hợp khoảng 55-65%. Giai đoạn nở (19-21 ngày) độ ẩm 80-85%. Nếu trong quá trình ấp, độ ẩm quá cao gà con nở ra sẽ nặng bụng, bên trong vỏ dính đầy chất nhớt. Nếu độ ẩm thiếu gà nở lông sẽ không bông, khối lượng thấp. Độ ẩm vừa đủ gà con nở ra chiếm khoảng 60-61% khối lượng trứng ấp. >> cá cược đá gà Đảo trứng: Với máy tự động cứ 2 giờ đảo trứng một lần. Nếu máy tự tạo không có hệ thống tự động đảo trứng thì người điều khiển máy phải đảo bằng tay. Đảo trứng từ ngoài vào trong, từ trong ra ngoài. Lợi ích của việc đảo trứng là để cho to phân bố đều trên trứng và tránh trứng phải nằm nguyên một vị trí, phôi bị dính vào vỏ trứng không phát triển được, cuối cùng sẽ chết. Lúc trứng đã chuyển sang giai đoạn nở (18 ngày) thôi không đảo trứng. Làm lạnh: Đối với trứng thủy cầm thường có thêm quy trình làm lạnh trứng, kéo khay trứng ra ngoài một ngày 2-3 lần. Gà con nở ra, chọn gà loại 1 là những con nhanh nhẹn, mắt sáng, lông bông, không nặng bụng, chân mọng, không hở rốn, khoèn chân, vẹo mỏ. Gà nở ra đưa xuống chuồng nuôi không chậm hơn 24 giờ vì gà để lâu trong máy không ăn uống được sẽ khô chân khó nuôi. ấp tốt, gà con loại 1 chiếm 95-97%. Khử trùng máy ấp bằng formol và thuốc tím (mỗi 1m3 máy dùng 20cc formol và 16,6g thuốc tím). Đặt thuốc vào đĩa, để đĩa vào đáy tủ cho thuốc bốc hơi, đóng cửa và các lỗ thông khí của máy ấp lại trong vòng 45 phút. Sau đó mở cửa máy, quạt cho khí formol bay hết ra ngoài >> tìm hiểu gà đá online
Nhân giống thuần chủng trong phạm vi một giống đã được áp dụng hàng chục năm nay trong ngành chăn nuôi. Về phương diện di truyền đó là sự giao phối giữa những cá thể hoàn toàn giống nhau về các yếu tố di truyền. Bằng cách nhân giống thuần chủng đã duy trì được tính đồng nhất của giống trong nhiều thế hệ. Tuy nhiên, để tránh giao phối cận thân gây hậu quả xấu về mặt di truyền, cần phải ghép những con giống đã được chọn lọc vào những gia đình riêng biệt Kỹ thuật chọn lọc gà và nhân giống gà >> tìm hiểu đá gà cựa sắt I. Nhân giống thuần chủngNhân giống thuần chủng trong phạm vi một giống đã được áp dụng hàng chục năm nay trong ngành chăn nuôi. Về phương diện di truyền đó là sự giao phối giữa những cá thể hoàn toàn giống nhau về các yếu tố di truyền. Bằng cách nhân giống thuần chủng đã duy trì được tính đồng nhất của giống trong nhiều thế hệ. Tuy nhiên, để tránh giao phối cận thân gây hậu quả xấu về mặt di truyền, cần phải ghép những con giống đã được chọn lọc vào những gia đình riêng biệt. Những gia đình này vẫn được tiếp tục theo dõi các chỉ tiêu năng suất sau khi ghép gia đình. Thông thường mỗi gia đình gà có 1 trống và 10 - 12 mái. Ngoài ra,trong mỗi gia đình còn có 1 - 2 trống dự phòng. Các cá thể trong gia đình đều được đeo số để tiện theo dõi. Lúc gà mới nở ra được đeo số ở cánh, lớn lên được đeo thêm số ở chân. Trứng của từng con mái đẻ ra cũng được đánh số và đưa vào ấp trong các khay riêng biệt. Để tránh nhầm lẫn do gà nhảy ra trong thời gian nở, người ta làm những khay ấp có chụp đậy. Dựa vào số liệu ghi trên vỏ trứng sẽ biết được lý lịch của chúng. Sau khi đã được chọn lọc qua các giai đoạn tuổi khác nhau: lúc 1 ngày tuổi, giai đoạn hậu bị và giai đoạn đẻ, tiến hành đánh giá giá trị giống của từng cá thể và chọn ghép gia đình để tái sản xuất thế hệ tiếp theo với nguyên tắc anh em ruột hay anh em cùng bố khác mẹ hoặc cùng mẹ khác bố không được ghép vào một gia đình mới. Để tránh đồng huyết trong 4 thế hệ liên tục, cần phải luân chuyển trống mái theo nguyên tắc sau đây: Nếu trong quần thể có 20 gia đình (là số gia đình tối thiểu của một dòng) thì đánh số thứ tự từ 1 - 20. Con của mỗi gia đình được đeo số theo số của gia đình đó. Khi ghép gia đình mới ở thế hệ thứ I (F1), ta ghép trống là con của gia đình thứ nhất với mái là con của gia đình thứ 2 và ký hiệu số gia đình mới là 1/2 (ngầm hiểu tử số 1 là con trống, mẫu số 2 là con mái). Tiếp tục ghép con trống của gia đình số 2 với mái của gia đình thứ 3 và gia đình mới này mang ký hiệu 2/3. Cứ tiếp tục như vậy cho đến gia đình mang ký hiệu 20/1. Sang thế hệ II (F2) ta ghép gà trống là con của gia đình số 1/2 với mái là con của gia đình số 3/4 và ký hiệu gia đình mới này là 1/2 >> cá cược đá gà Tiếp tục làm như vậy sẽ có các gia đình mới mang các ký hiệu: Theo quy luật đó, đến thế hệ thứ IV vẫn có 20 gia đình thuần chủng mà sự đồng huyết không xảy ra. Từ thế hệ thứ IV, quá trình ghép phối được lặp lại như thế hệ thứ I. Vậy là thế hệ thứ IV của chu kỳ cũ trở thành thế hệ ban đầu của chu kỳ mới. Trên đây là sơ đồ ghép phối lý tưởng, nhưng trong thực tế sản xuất đến một thế hệ nào đó trong chu kỳ, không phải tất cả các gia đình đều được giữ nguyên, mà do một số gia đình có thể bị chết trong quá trình nuôi hoặc chất lượng giống kém không được chọn. Vì thế, để tránh đồng huyết cần phải xây dựng 2 vòng ghép phối và như vậy mỗi dòng cần có tối thiểu 40 gia đình. II. Chọn lọc giống gà ông bà So với các dòng thuần, công tác giống đối với gà ông bà đơn giản hơn. Việc đánh giá chọn lọc giống đối với các đối tượng này chủ yếu theo phương pháp chọn lọc quần thể, tức là dựa vào chỉ tiêu năng suất, ngoại hình của bản thân con giống, mà không tính đến các chỉ tiêu năng suất bố mẹ, anh chị em ruột và anh chị em họ. Chỉ tiêu chọn giống quan trọng nhất đối với gà ông bà là khối lượng cơ thể và ngoại hình. Một số gà bị loại do một số khuyết tật ngoại hình hoặc khối lượng không đạt tiêu chuẩn. Có biến dị di truyền về khối lượng cơ thể trong hầu hết các dòng gà ông bà. sự biến dị này có thể ứng dụng trong quá trình chọn lọc gà giống ông bà để phát huy tối đa tiềm năng di truyền của từng gà con được sinh ra từ nhũng con giống này. Mặc dù tiến bộ di truyền đạt được do chọn lọc đối với mỗi cá thể là khiêm tốn, nhưng lợi ích kinh tế tổng thể thu được từ tất cả đàn gà sản xuất ra là đáng kể. >> tìm hiểu đá gà ăn tiền 1. Chọn gà con 1 ngày tuổi - Gà con mang từ máy nở ra phải để riêng theo từng dòng trống và dòng mái và chọn tách trống mái theo yêu cầu đối vơí mỗi giống. - Cân 10% số gà nở ra để xác định khối lượng bình quân của từng dòng. Chọn những cá thể có khối lượng xấp xỉ khối lượng sơ sinh trung bình của từng dòng. - Chọn những cá thể có ngoại hình chuẩn: Thân hình cân đối, không dị tật, lông bông tơi xốp, bụng thon nhỏ, không hở rốn, mắt tinh nhanh, mỏ và chân cứng cáp sáng bóng, dáng đi nhanh khoẻ. Loại bỏ những cá thể có khác biệt so với một trong những đặc điểm nêu trên như: Mỏ vẹo, bắt chéo hoặc khác thường; mắt kém, đồng tử méo; cổ vẹo; lưng cong; không có phao câu; không có đuôi; xương lưỡi hái bị vẹo, ngắn, dị dạng hoặc trồi ra ngoài; ngón chân và bàn chân cong, bàn chân sưng hoặc bị nhiễm khuẩn, trẹo đầu gối; ngực bị phồng lên; cơ ngực kém phát triển hoặc phát triển không bình thường so với cá thể khác; bộ lông không tơi xốp hoặc bị ướt dính. - Gà con sau khi được chọn cho vào hộp và phải để riêng theo từng dòng, mỗi hộp đựng 100 con riêng biệt. - Chuyển gà con xuống chuồng nuôi riêng biệt theo từng dòng theo cơ cấu đàn như sau: So với bà ngoại thì số lượng gà bà nội chiếm tỷ lệ 30%, ông ngoại chiếm 20% và ông nội chiếm 19% so với bà nội. - Mỗi ô nuôi không quá 300 con (nếu nuôi nền), nuôi tách riêng trống, mái từ lúc 1 ngày tuổi đến 19 - 20 tuần tuổi. 2. Chọn gà lúc 21 ngày tuổi hoặc 42 ngày tuổi (ngày tuổi chọn lọc tuỳ thuộc từng giống, dòng) - Trước khi chọn giống cần phải kiểm kê chính xác số gà còn laị của từng dòng. - Xác định quy mô đàn giống dự kiến (số gà mái đầu kỳ của cả dòng mái và dòng trống ông bà). - Đối với bà ngoại: Chỉ loại những cá thể có khuyết tật, ốm yếu, kể cả những gà trống bị lẫn. Thường giữ lại 95 - 97% số gà so với đầu kỳ. - Đối với ông ngoại: Sau khi loại những cá thể có khuyết tật, ốm yếu, chỉ giữ lại những con nặng cân nhất để làm giống; số lượng trống giữ lại thường là 60 - 65% so với đầu kỳ. - Đối với bà nội: Cũng chỉ loại những cá thể có khuyết tật về ngoại hình và thể chất, kể cả trống bị lẫn mái. Thường giữ lại 94 - 95% so với đầu kỳ - Đối với ông nội: Sau khi loại những cá thể bị khuyết tật, ốm yếu, cũng chỉ giữ lại những con nặng cân nhất, khoẻ nhất để làm giống. Ta chỉ giữ lại 15% so với bà nội. - Những khuyết tật của các cá thể được biểu hiện bằng 1 trong những đặc điểm sau: Mỏ vẹo, mắt kém, đồng tử méo, cổ vẹo, lưng cong vẹo, xương lưỡi hái bị vẹo, ngắn, dị dang, đi bằng đầu gối, khèo chân, hở rốn, ngón chân bị cong, sưng bàn chân, lông phát triển kém. - Công việc chọn lọc được tiến hành như sau: + Nếu đàn gà vào chọn được nuôi trong nhiều ô chuồng thì chọn theo từng ô độc lập. Mục tiêu là giữ lại những cá thể tốt nhất của từng ô. + Xác định khối lượng cơ thể trung bình của từng ô bằng cách cân chọn mẫu từ 10 - 20% số gà có mặt trong từng ô, sau đó tiến hành cân từng cá thể. Căn cứ vào khối lượng sống trung bình của từng mẫu, ngoại hình và số gà cần chọn của từng ô, mà quyết định giữ lại những cá thể nào làm giống. 3. Chọn gà lúc 19 - 20 tuần tuổi - Trước khi đàn gà được chuyển lên chuồng gà đẻ để ghép trống mái, cần tiến hành chọn lọc lần thứ 3. - Các tính trạng được chọn lọc trong giai đoạn này chủ yếu là ngoaị hình và thể chất. - Đối với 2 dòng trống: Chọn những cá thể có khối lượng sống, đạt khối lượng chuẩn, khoẻ mạnh nhanh nhẹn, bộ lông phát triển, màu và tích tai to màu đỏ tươi, hai chân chắc chắn cân đối, không dị tật về ngón, dáng đứng tạo với mặt nền chuồng một góc 450. Loại bỏ những cá thể quá gầy, bị dị tật về ngoại hình. Tỷ lệ trống được giữ lại 12 - 13% so với dòng mái. Sau đó sẽ loại thải dần trong quá trình khai thác trứng giống để đạt tỷ lệ trống so với mái khoảng 9 -10%. - Đối với 2 dòng mái: Giữ lại những cá thể có khối lượng sống đạt xấp xỉ trung bình của đàn, bộ lông bóng mượt, mào và tích tai phát triển màu đỏ tươi mỏ và 2 chân chắc chắn cân đối, khoảng cách xương chậu và mỏm xương lưỡi hái rộng, bụng mềm, lỗ huyệt rộng cử động. Loại bỏ những cá thể quá gầy yếu, có dị tật về ngoại hình (xem bảng 1). 4. Chọn lọc giai đoạn gà đẻ - Để giảm bớt sự lảng phí về thức ăn, trong qúa trình khai thác trứng giống, định kỳ hàng tháng một lần tiến hành loại thải những cá thể đẻ kém dựa theo một số đặc điểm ngoại hình sau đây: Những cá thể có mào và tích tai kém phát triển, màu nhợt nhạt, lỗ huyệt nhỏ, khô, ít cử động, kể cả những cá thể vào giai đoạn cuối khai thác trứng mà bộ lông vẫn bóng mượt, lông lưng và lông cổ vẫn còn nguyên vẹn thì chứng tỏ rằng những cá thể đó đẻ kém cần phải loại thải (xem bảng 2). - Một công đoạn quan trọng trong công tác giống đối với gà ông bà là chọn phối giữa các dòng. Những con trống và mái đưa vào thử nghiệm lai phải được chọn lọc kỹ càng, đặc trưng cho các dòng hoặc giống về năng suất, ngoại hình, đồng thời người chọn giống phải biết chọn phối thích hợp nhằm củng cố hoặc tạo ra ưu thế lai về một số tính trạng mong muốn ở con lai. Bảng 1: Những đặc điểm bên ngoài của gà mái hậu bị tốt và xấu Bố trí một hố sát trùng trước mỗi chuồng nuôi. Hạn chế khách thăm viếng, bất cứ người nào vào chuồng cũng phải thay quần áo sạch, mang giầy mũ của nơi chăn nuôi. Kỹ thuật nuôi gà đẻ trứng thương phẩm >> tìm hiểu đá gà cựa sắt I.Công tác chuẩn bị trước khi nuôi: a. Chuẩn bị thiết bị - dụng cụ chăn nuôi: - Rèm che: Có thể dùng rèm che dài để có thể che kín hoàn toàn chuồng nuôi hoặc loại rèm che lửng chỉ che kín phần có lồng. - Lồng gà: Chuẩn bị đủ số lượng, căn cứ trên quy định 1 2 gà/1ồng/1 ,2m2 (4 con trong một ngăn của lồng). - Máng ăn và máng uống: máng dài bằng kim loại hay bằng nhựa. Máng được đặt dọc theo chiều dọc chuồng. ở phía trước (máng uống ởtrên, máng ăn ởdưới). Định mức 10 cm chiều dài máng cho 1 gà. .> tìm hiểu đá gà campuchia b. Vệ sinh, tiêu độc chuồng trại và dụng cụ chăn nuôi: Cần thực hiện các bước sau: - Loại bỏ rèm che cũ, mang ra khu vực xa nơi nuôi dưỡng để xử lý. - Rửa toàn bộ chuồng, lồng, rèm che, máng ăn, máng uống sau đó để khô và phun thuốc sát trùng trần, tường của chuồng, lồng, máng ăn, máng uống, diện tích xung quanh chuồng bằng dung dịch thuốc sát trùng Con Cò, hoặc formol 2% liều lượng 1lít/m2. Sau đó, để trống chuồng trong vòng từ 7 đến 14 ngày. >> tìm hiểu gà đá cựa sắt Thao tác vệ sinh chuồng phải theotrình tự sau: - Đưa tất cả các trang thiết bị nhỏ ra ngoài và ngâm vào nước.Cọ rửa đánh sạch những chất bẩn. - Sát trùng bằng thuốc sát trùng. - Để trống chuồng. Bố trí một hố sát trùng trước mỗi chuồng nuôi. Hạn chế khách thăm viếng, bất cứ người nào vào chuồng cũng phải thay quần áo sạch, mang giầy mũ của nơi chăn nuôi. II.Kỹ thuật nuôi dưỡng gà hậu bị: Giai đoạn gà từ 1 ngày tuổi đến 18 - 20 tuần tuổi: Đây là giai đoạn quan trọng, có tính quyết định tới năng suất đẻ trứng. Nuôi gà đúng phương pháp đẻ đúng thời điểm, trứng sẽ to, năng suất đẻ cao. Bà con chăn nuôi phải hết sức chú ý đến hai yêu cầu kỹ thuật sau: - Chế độ cho ăn đạt thể trọng quy định (luôn kiểm tra thể trọng gà). - Chế độ chiếu sáng thích hợp tạo cho gà đẻ đúng thời điểm. Chế độ ăn: Gà phải được ăn thức ăn có chất lượng tốt khẩu phần ăn chính xác theo từng giai đoạn phát triển của gà. Để đáp ứng được yêu cầu đó, bà con chăn nuôi hãy dùng thức ăn đậm đặc Con Cò C25 hoặc thức ăn hỗn hợp Con CòC26, Con Cò C27 của CTy Thức ăn gia súc Con - Cò dùng cho gà hậu bị. Cách sử dụng như sau. Gà từ 1 tuần tuổi đến 9 tuần tuổi: Thức ăn được sử dụng ởgiai đoạn này là cám hỗn hợp Con CòC26 hoặc Con? Cò C21. Cám đậm đặc Con Cò C25 được pha tròn'theo tỷ lệ như sau: Trong 100kg cám trộn có 32% cám Con CòC25, 53% ngô, 10% tấm, 5% cám gạo. Trong giai đoạn này gà ăn tự do và không cần theo dõi thể trọng, nhưng ởtuần thứ 9 gà phải ăn đạt? 52g/con/ngày cám trộn hoặc cám hỗn hợp và gà phải đạt trọng lượng quy định là 730 g/con. Gà từ 10 tuần tuổi đến 19 tuần tuổi: Trong giai đoạn này phải lưu ý tới sự đồng đều của thể trọng gà.Vì vậy thức ăn phải được phân phối đều cho toàn đàn ăn khẩu phần quy định tránh hiện tượng gà ăn quá nhiều, hay quá ít. Thức ăn dùng cho gà giai đoạn này là cấm hỗn hợp Con Cò C27 hoặc cám đậm đặc Con Cò C25. Cám Con Cò sử dụng trong giai đoạn này được pha trộn như sau: Trong 100kg cám hỗn hợp có 26% C25 , 34% là ngô, 25o/o là thóc xay, 1 5% cám gạo . Gà trong giai đoạn này cho ăn khẩu phần đinh lượng tuỳ tuần. Định lượng này tăng dần và đạt 85g/con/ ngày cám hỗn hợp Con CòC25 được pha trộn theo tỷ lệ trên. Thể trọng tiêu chuẩn đặt ra ở gà 1g tuần tuổi phải đạt 1 620/ con. Kiểm tra mức độ tăng trọng của gà hậu bị: Kỹ thuật cơ bản nuôi gà hậu bị là không quá mập cũng như gà quá gầy. Cần? phải theo sát định mức thể trọng từng giai đoạn tuổi. Các bước tiến hành: -Bố trí đủ máng ăn, máng uống và mật độ theo quy định để gà phát triển đồng đều. - Cứ 2 tuần cân gà 1 lần (10% trên tổng đàn) . Cân vào lúc đói và cố định thời gian . Từ kết quả kiểm tra thể trọng để phân đàn và đều chỉnh thức ăn, nếu trọng lượng gà nhẹ bằng 95% trọng lượng chuẩn thì phải dùng định mức thức ăn của tuần trên kế tiếp. Ví dụ: Trọng lượng chuẩn gà là 670g ởtuần thứ 8 mà chỉ cân được 630g thì phải dùng định? mức thức ăn ởtuần thứ 10 là 55g/con/ngày thay cho khẩu phần định mức ởtuần 9 là 52g/con/ngày. Nếu trọng lượng gà nặng hơn trọng lượng chuẩn 5% thì tiếp tục sử dụng khẩu phần định mức ở tuần đó thay cho tuần kế tiếp. Để có một đàn gà hậu bị tốt khi trọng lượng gà ở1 9 tuần tuổi bằng trọng lượng chuẩn = 5% và đạt tỷ lệ đồng đều là 80% so với tổng đàn. Chế độ chiếu sáng: Chế độ chiếu sáng giúp cho gà thuần thục giới tính đúng ngày giờ, đẻ sai và duy trì năng suất đẻ. Thời gian chiếu sáng một ngày đối với gà hậu bị: - Gà 1 - 2 tuần tuổi: Thời gian chiếu 24/24 giờ. - Gà 3 -7 ngày tuổi: Thời gian chiếu 23/24 giờ - Gà từ đến tuần 11 : Thời gian chiếu giảm từ 22/24 xuống 13/24 giờ. - Gà từ 12 - 18 tuần tuổi: sử dụng ánh sáng tự nhiên. - Gà từ 19 - 22 tuần tuổi : Thời gian chiếu sáng từ 13/24 giờ đến 16/24 giờ và duy trì thời gian chiếu sáng này suốt thời kỳ gà đẻ. Cường độ ánh sáng sử dụng là 4w/m2. III.Kỹ thuật nuôi dưỡng gà đẻ. * Các loại thức ăn -Gà từ tuần thứ 20, đẻ trứng bói đến loại thải (74 tuần). Thức ăn giai đoạn này gà ăn thức ăn của gầ đẻ và khẩu phần định mức của gà đẻ. Định mức tăng dần đến 26 tuần định lượng thức ăn đạt 120g/con/ngày. Thức ăn dùng cho gà đẻ tốt nhất hiện nay là hỗn hợp Con Cò C24 hoặc cám đậm đặc Con Cò C21 hoặc cám đậm đặc Con Cò 210 (của CTY Thức ăn gia súc Con Cò), - Gà từ 20 tuần tuổi: Sử dụng cám Con Cò C210, pha trộn theo tỷ lệ sau: Cứ 100g cám hỗn hợp trộn có 37% C210, 23% ngô, 40% cám gạo hoặc trộn theo tỷ lệ 33% C210, ngô 40%, cám gạo 25%. -Gà trên 40 tuần tuổi: Sử dụng cám Con Cò C210 và pha trộn như sau: Cứ 100kg? cám hỗn hợp trộn có 33% cám Con CòC21 0, 27% ngô, 40% cám gạo. * Cách cho gà ăn; Đố thức ăn hỗn hợp hoặc cám hỗn hợp trộn đồng đều ắ máng,? đảo đều thức ăn ít nhất là 2 - 3 lần/ ngày để thức ăn được phân bố đều trong máng kích thích gà ăn được nhiều hơn. Không được giảm khẩu phần thức ăn khi tỷ lệ đẻ của đàn gà con cao, chỉ giảm khi? tỷ lệ đẻ tụt xuống. Cho gà ăn 2 lần trong ngày: Lần 1: 75% thức ăn vào buổi sáng, lần 2-3 lần 25% vào buổi chiều. * Nước uống phải luôn đảm bảo số lượng 250ml/con, luôn sạch và mát 26oc. * Duy trì chế độ chiếu sáng 16 giờ/ ngày. Sáng 4 - 6 giờ thắp đèn 16 - 1 8 giờ ánh sáng tự nhiên. 18 - 20 giờ ánh sáng đèn . Cường độ án h sáng duy trì 4w/m2 cho suốt thời kỳ đẻ. Tiếp tục theo dõi thể trọng gà, trong giai đoạn này, phải tăng trọng chậm đặc biệt? trong 5 - 6 tháng đầu thời kỳ đẻ. Ngược lại sự giảm trọng lượng trong thời kỳ này thường? dẫn tới sự sụt đẻ và thay lông. Loại bỏ những gà không đủ tiêu chuẩn như đầu to hay quá? dài, mào kém phát triển và có vảy trắng... * Vệ sinh phòng bệnh cho gà đẻ: Gà 1 ngày tuổi Dùng vacxin phòng bệnh Marex. Gà 3 ngày tuổi Nhỏ vacxin phòng dịch tả và viêm phế quản. Gà từ 1- 3 ngày tuổi Chống stess và viêm rốn thương hàn bằng Colitetravet 1 g/ lít + 1g Vitamin C. Gà từ 4-6 ngày tuổi Phòng bệnh hen suyễn và sổ mũi bằng Tri-alplucine 1 g/1? lít nước. Gà đẻ 7 ngày tuổi Phòng bệnh Gumboro. Gà 10 ngày tuổi Chủng vacxin đậu . Gà 14 ngày tuổi Phòng Gumboro và dịch tả gà. Gà từ 22 - 24 ngày tuổi Phòng cầu trùng. . Gà từ 26 - 28 ngày tuổi Phòng CRD, E-coli, thương hàn, Tri-alplucine 1 g/1ít. Gà từ 33 -37 ngày tuổi Phòng cầu trùng. Gà đến 42 ngày tuổi Phòng E-coli, tụ huyết trùng băng Neotyphomicine??? 0,15 ml/con . Gà đến 63 ngày tuổi Phòng Gumboro. . Gà đến 70 ngày tuổi Tiêm phòng dịch tả, phù đầu, hội chứng giảm đẻ bằng OVO 0,15cc/con. Gà 98 ngày tuổi Phòng tụ huyết trùng Gà đến 1 1 2 ngày tuổi Tiêm phòng dịch tả, phù đầu, hội chứng giảm đẻ. I. Con giống: Hiện nay công ty chúng tôi đang có bán các giống gà cao sản rất có uy tín trên thị trường như sau: >> đá gà cựa sắt 1. Giống gà ISA 30 MPK (bố mẹ và thương phẩm). Được nhập từ nước cộng hoà Pháp, năng suất cao, trọng lượng thương phẩm đạt 2,8 - 3.0 kg ở 49 ngày tuổi. Tiêu tốn thức ăn thấp: 1,8 - 2,1 kg/1kg trọng lượng. Đây là giống gà cao sản có tốc độ phát triển nhanh, ngoại hình đẹp, lườn rộng, tỉ lệ thịt xẻ cao, tỉ lệ mỡ thấp, sức kháng bệnh tốt, hoàn toàn thích nghi với điều kiện khí hậu Việt Nam. 2. Giống gà vàng 882. Giống gà vàng 882 đời ông bà và bố mẹ của công ty giống gia cầm Lương Mỹ được nhập từ Công ty gia cầm Bạch Vân - Trung Quốc. Giống gà này được nuôi rộng rãi ở hầu hết các tỉnh của Trung Quốc. Đặc trưng chủ yếu của giống gà này là: Lông màu vàng, chân vàng, da vàng, thân hình chữ nhật, thịt thơm ngon. Đồng thời có sức chống bệnh tốt, tỉ lệ nuôi sống cao, chi phí thức ăn thấp, được người tiêu dùng ưa thích. >> Trực tiếp đá gà 3. Giống gà siêu trứng HY_LINE và BABCOCK_B 380. Được nhập từ Mỹ và nước Cộng hoà pháp, là giống gà có sản lượng trứng cao nhất hiện nay. Số lượng trứng bình quân trên mái tính đến 76 tuần đạt từ 326 - 339 quả. Tỷ lệ đẻ đỉnh cao từ 93- 96%. Lượng thức ăn tiêu thụ/ 10 quả trứng từ 1,4 - 1,5 kg. Trứng gà màu nâu, lòng đỏ có màu vàng sậm rất được thị trường ưa chuộng. Giống gà siêu trứng có khả năng đề kháng cao, tính tình hiền lành dễ thích nghi với mọi hình thức chăn nuôi tại Việt Nam. II. Chuồng trại và vệ sinh thú y. 1. Chuồng trại và trang thiết bị. a. Chuồng trại: Tuỳ theo quy mô và mục đích sử dụng mà chuồng trại có thể cải tạo hoặc xây mới. Tuy nhiên chuồng trại phải đảm bảo các tiêu chuẩn kỹ thuật sau: - Chuồng trại xây dựng nơi cao ráo thoáng mát. Đặc biệt quan tâm đến hướng, độ cao và độ thông thoáng của chuồng trong điều kiện khí hậu nước ta có nắng nóng và mưa phùn gió bắc. - Nền chuồng: Cao ráo sạch sẽ, nền ba ta hay lát gạch để chống ẩm và dễ vệ sinh. - Vị trí xây dựng cần xa khu dân cư, đường xá hay các khu chăn nuôi khác. Trước cửa chuồng phải có hố hoặc khay sát trùng. Nên có tường rào bảo vệ, chống chuột, thú hoang và các nguồn lây nhiễm khác. - Có nguồn nước sạch không bị ô nhiễm. b. Trang thiết bị: - Rèm che: Bằng bạt, bao tải ... dùng che gió, mưa, nắng và giữ ấm cho gà trong mùa rét. - Quây gà: Dùng khi úm gà con thường là cót, cót ép... - Nguồn sưởi: Bóng điện, bếp điện, bóng sưởi ... nếu lò than hay củi cần thông khói tốt. - Máng uống: Khi gà còn nhỏ dùng máng uống galon nhỏ. Sang tuần tuổi thứ hai thay bằng máng uống galon to hoặc máng uống dài. - Máng ăn: Tuần tuổi đầu dùng khay tôn hoặc bằng mẹt. Từ tuần tuổi thứ hai, dùng máng P50 hay máng ăn đóng bằng gỗ. - Chất độn chuồng: Có thể dùng trấu, dăm bào phải khô sạch ... lớp độn dầy 8-10cm. >> cập nhật tin đá gà online 2. Vệ sinh thú y. Muốn loại trừ hoặc giảm thiểu bệnh tật thì việc vệ sinh sạch sẽ toàn trại rất cần thiết: - Khi chưa có gà: Quét dọn và rửa sạch toàn bộ chuồng nuôi, sau đó quét sulphát đồng (CuSO4) 5% và vôi đặc 20% từ 2-3 lần. Để khô, phun formol 5% hoặc xông formol và thuốc tím (KMnO4). Thời gian để trống chuồng tối thiểu 2 tuần. Các trang thiết bị khác cũng vệ sinh sát trùng toàn bộ bằng formol 1 %. - Khi có gà nuôi: Khu vực chuồng nuôi luôn thoáng sạch, không ẩm thấp. Cửa chuồng có hố sát trùng bằng crezin 3% hoặc vôi bột. Không cho người ngoài, gia súc khác tiếp xúc hay lại gần khu chăn nuôi. Hết sức hạn chế khách tham quan, xem xét Bệnh xảy ra ở đàn gà đẻ công nghiệp (thương phẩm) và gà đẻ trứng giống trong giai đoạn từ 26-35 tuần tuổi (giai đoạn khai thác trứng). Gà đẻ trứng nâu thường nhạy cảm hơn. Bệnh lây truyền từ đàn bố mẹ sang đàn con thông qua trứng nhiễm bệnh (trứng bất thường) - thể hiện tính truyền dọc. Ngoài ra Hội chứng giảm đẻ còn lây lan từ đàn gà bệnh sang đàn gà khỏe thông qua thức ăn, dụng cụ chăn nuôi (máng ăn, uống...), phương tiện vận chuyển đã bị nhiễm khuẩn từ phân và các chất bài tiết khác của đàn gà bệnh (tính truyền ngang).Bệnh thường kéo dài khoảng 6-12 tuần với các triệu chứng điển hình như: - Tỉ lệ đẻ trứng ở đàn gà giảm đột ngột từ 20 - 40% (giảm khoảng 12-16 trứng/gà), có khi lên đến 50%; - Trứng nhỏ, nhạt màu, vỏ lụa, mỏng và nhăn nheo, hình dạng méo mó hoặc có khi không có vỏ; >> tìm hiểu đá gà campuchia - Lòng trắng loãng; - Tỷ lệ ấp nở giảm; Gà bệnh vẫn ăn uống bình thường, có khi bị tiêu chảy nhất thời, mào gà có màu nhợt nhạt (từ 10-70% trường hợp). Nhìn chung sức khỏe gà không thay đổi nhiều so với trước. Nhìn chung đối với xác gà chết nghi mắc Hội chứng giảm đẻ không có bệnh tích điển hình. Tuy nhiên, khi mổ khám người ta thường thấy những biến đổi như sau: - Buồng trứng và ống dẫn trứng bị teo nhỏ; - Đôi khi tử cung bị viêm, phù thũng; - Trứng non không phát triển. >> cá cược đá gà ăn tiền Hội chứng giảm đẻ ở gà rất dễ nhầm lẫn với bệnh viêm phế quản truyền nhiễm và rối loạn hấp thu canxi. Bệnh viêm phế quản truyền nhiễm phân biệt với Hội chứng giảm đẻ bằng các triệu chứng đặc trưng như: gà bệnh hay hắt hơi, thở khò khè, kém ăn, chậm lớn, lông cánh xơ xác. Chứng rối loạn hấp thu canxi ở gà được phân biệt với Hội chứng giảm đẻ bằng các bệnh tích đặc trưng như: - Xương ống chân mềm và xốp, dễ gẫy. - Xương ức (ngực) bị vặn vẹo. - Xương sườn có những nốt u do sưng khớp giữa phần xương và sụn của xương sườn. Hiện nay, đối với Hội chứng giảm đẻ ở gà người ta vẫn chưa tìm ra thuốc đặc trị. Vì vậy, phòng bệnh vẫn là biện pháp hữu hiệu nhất để bảo vệ đàn gà đẻ tránh khỏi nguy cơ mắc bệnh. Trong công tác phòng bệnh, cần nghiêm túc thực hiện các bước sau: Bước 1: Thường xuyên vệ sinh chuồng trại, máng ăn, máng uống sạch sẽ, và phun thuốc sát trùng NAVETKON-S hoặc BENKOCID định kỳ 2lần/tuần để tiêu diệt mầm bệnh trong và ngoài môi trường. >> trực tiếp đá gà cựa sắt Bước 2: Tiêm phòng cho đàn gà đẻ khi chúng đạt 15-16 tuần tuổi. Hiện nay trên thị trường có các loại vacxin như: ND-IB-EDS K và ND-IB-EDS Emulsion để phòng 3 bệnh Niu-cát-xơn (ND), viêm phế quản truyền nhiễm (IB) và hội chứng giảm đẻ (EDS). Bước 3: Thường xuyên bổ sung VITA-ELECTROLYTES (NAVETCO), TERRAMYCIN TRỨNG và NAVET-BIOZYM trong nước uống theo chỉ định giúp tăng sức kháng bệnh, chống stress khi môi trường thay đổi, giúp tăng khả năng hấp thu khoáng, cung cấp vitamin, kích thích buồng trứng phát triển, tăng tỷ lệ đẻ, tỷ lệ ấp nở, kéo dài chu kỳ đẻ và giai đoạn gà đẻ đỉnh cao. Anh Lã Tuấn Anh (26 tuổi) ở tiểu khu Hoa Ban, thị trấn Nông trường Mộc Châu, huyện Mộc Châu (Sơn La) nuôi gà Ai Cập quy mô trang trại trên 2.000 con, trong đó 1.000 gà đẻ, 1.000 gà thương phẩm. Nuôi gà Ai Cập Lã Tuấn Anh cho biết: “Đây là giống gà dễ nuôi, ăn tạp và khỏe nên chóng lớn. Hơn 2 tháng tuổi đã đạt trọng lượng 2 - 2,5 kg/con, thịt thơm, ngon như thịt gà ta. Nhà mình tận dụng vườn chè để thả vì vậy gà tự đào bới kiếm thức ăn là chính, khả năng đề kháng của chúng rất cao”.Theo cách tính của Tuấn Anh cứ 1 con gà Ai Cập nuôi từ nhỏ đến khi xuất bán chỉ tốn khoảng 70.000 đ chi phí, bán được từ 100.000 - 120.000 đ. Thịt gà Ai Cập thơm ngon, có giá cao hơn gà phổ biến tại địa phương từ 20 - 25%. Nhà nông chỉ cần nuôi 20 con gà Ai Cập đẻ trứng, mỗi tháng ít nhất cũng thu 1,2 - 1,5 triệu đồng. Nuôi vài trăm con thương phẩm và mái đẻ mỗi tháng thu 7 - 8 triệu đồng không khó. Loài gà này rất phù hợp với khí hậu ở Mộc Châu, chóng lớn, ít bệnh tật. >> tìm hiểu đá gà online Trứng gà Ai Cập nhỏ nhưng lòng đỏ to, thơm ngon. Xuất bán ra thị trường giá dao động từ 3.000 - 5.000 đ/quả. Gà già bán cũng bán được 70.000 - 80.000 đ/con. Trừ đi các khoản chi phí, một tháng gia đình Tuấn Anh thu lãi hơn 20 triệu đ. Hỏi về chăn nuôi lớn như vậy, song lâu nay dịch bệnh không có cơ hội bùng phát, Tuấn Anh chia sẻ: Gà con mới mua vẫn còn nhỏ, trong 1 tháng đầu phải dùng quây úm. Có thể dùng cót ép, tấm nhựa hoặc lưới sắt để quây, bên dưới rải trấu và thắp bóng điện để giữ ấm cho chúng, chú ý điều chỉnh nhiệt độ từ 30 - 35 độ C, trong 2 tuần đầu cho ăn tự do, sau đó ăn theo định lượng. Xây chuồng trại phải chọn nơi cao ráo, đảm bảo giữ ấm về mùa đông, thoáng mát về mùa hè, cách xa khu dân cư sinh sống. Nền chuồng bằng bê tông, chất độn chuồng bằng trấu đã được rắc vôi và phun khử trùng, tiêu độc. >> tìm hiểu gà đá ăn tiền Khi đưa gà vào nuôi cần chuẩn bị vật chất kỹ thuật như lồng úm, chụp sưởi, máng ăn, chất độn chuồng... Thời điểm gà xuống chuồng nên để nhiệt độ giảm dần cho chúng thích nghi với nhiệt độ môi trường ngoài tự nhiên, Khi gà lớn cho ăn thêm chuối để tăng cường chất xơ, đôi khi trộn thêm bã bia và cám gạo. Nhờ được đầu tư hệ thống chuồng trại khá bài bản, kết hợp với kiến thức thú y mà anh đã được học tại Trường Cao đẳng Nông lâm Thái Nguyên và kinh nghiệm đi làm thuê nên việc chăn nuôi nhanh chóng mang lại kết quả tốt. Chia sẻ về kinh nghiệm nuôi gà đẻ, Tuấn Anh cho biết: Ở giai đoạn gà hậu bị, chú ý đến chế độ ăn, tiêm vacxin phòng bệnh đầy đủ, điều này quyết định đến khả năng sinh sản sau này, chế độ ăn bảo đảm 45 gr thức ăn/ngày/con ở tuần thứ 7, sau đó tăng 3 - 4 gr/ngày/con. Thời điểm này nên bấm mỏ của gà trên để tránh xây xát khi chúng mổ nhau. >> tìm hiểu đá gà campuchia Giai đoạn gà đẻ trứng phải chú ý đến chế độ ăn và làm ổ đẻ. Chuồng phải luôn sạch sẽ, khử trùng trước khi thả gà vào từ 2 - 3 tuần; máng ăn, máng uống cũng được sát trùng trước đó. Gà 20 tuần tuổi bắt đầu cho trứng, ở giai đoạn này cho ăn theo định mức 100 gr thức ăn/ngày/con, sau tăng dần lên duy trì ở mức 115 gr/ngày/con. Đến khi gà chuẩn bị thải thì giảm lượng thức ăn.hù hợp nuôi thả vườn. Thức ăn chủ yếu là cám tổng hợp, có thể trộn lẫn thức ăn với tinh bột ngũ cốc, rau xanh. Nằm trong địa phận đất Phú Thọ, trên con đường quốc lộ 32, những ngôi làng trong vườn quốc gia Xuân Sơn nổi tiếng bởi đặc sản gà chín cựa, món ngon trong truyện thần thoại Sơn Tinh - Thủy Tinh. ga-9-cua >> đá gà cựa sắt Đường vào Xuân Sơn có thể đi theo hai ngả khác nhau. Một đường rẽ từ cổng rừng quốc gia, đi hơn chục km vào đến lõi rừng và một đường gần phía Thu Cúc rẽ lối vào, xuyên qua nhiều làng bản. Đường vào bản Cỏi, bản nổi tiếng về gà chín cựa nhất tại Xuân Sơn phải đi xuyên sâu đến tận lõi rừng. Bản người Dao có khoảng 100 nóc nhà đơn sơ, lụp xụp được che chắn bởi núi cao và rừng già. Những ngôi nhà thấp, lợn gà thả đầy sân, lũ trẻ thấy khách lạ rụt rè sau ô cửa. Gà có sáu, bảy cựa thì rất nhiều, bán giá 300.000 đồng một kg. Còn gà tám cựa và chín cựa. Nhìn thấy gà chín cựa, như thấy sống trong truyền thuyết xa xưa với mâm lễ vật "voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao" đã giúp Sơn Tinh thắng cuộc mà lấy được công chúa Mỵ Nương. Bản Lạng, nằm cách đó quãng chừng vài cây số cũng có rất nhiều gà bảy cựa được nuôi thả lang thang kiếm mồi trên khắp các cánh đồng. Gà chín cựa giá đắt hơn hẳn và nghe đồn rất khôn, có thể trông nhà thay chó. Thịt gà nhiều cựa của rừng Xuân Sơn thơm, thịt ngon đậm đà, hơn hẳn các món gà khác. Được thưởng thức một miếng thịt gà chín cựa giữa rừng núi Xuân Sơn phải mất nhiều công sức nhưng bù lại cảm giác thật tuyệt vời. >> đá gà trực tuyến Bản Cỏi nằm trong rừng quốc gia Xuân Sơn Gần bản Lạng là hang Lạng khá đẹp và sâu nằm khuất trong núi, phải đi qua cánh đồng của bà con dân tộc mới vào đến nơi. Nếu không có người dẫn đường, chắc khó lòng khách tìm thấy được đường men theo ruộng nương. Thăm hang Lạng mất chừng khoảng hơn một tiếng đồng hồ. Rừng Xuân Sơn là quê hương của gà chín cựa, đất sống của chuối cô đơn, có cánh rừng chò chỉ đẹp nhất nhì Tây Bắc và hệ thống hang động đá vôi đầy bí ẩn. Cánh rừng cách Hà Nội 120 km này còn nhiều điều cho bạn khám phá và quay lại. >> đá gà ăn tiền 1.1. Chuẩn bị dụng cụ và chuồng trại * Chuồng trại: chuồng trại và dụng cụ nuôi phải được cọ rửa sạch sẽ, để trống chuồng trước khi nuôi 15 - 20 ngày và phải được xử lý theo đúng qui định về vệ sinh phòng dịch. Tường quét vôi nồng độ 40%, nền chuồng được tiêu độc bằng xút 2% với liều lượng 1 lít/m2 hoặc bằng các loại thuốc sát trùng khác. >> tìm hiểu đá gà online campuchia * Máng ăn: có hai loại máng ăn: máng tròn và máng dài, ngoài ra gà con nuôi trong 28 ngày đầu phải dùng khay ăn. - Máng dài có thiết diện hình thang, đáy nhỏ từ 5-8 cm, miệng rộng từ 7-13 cm, chiều dài của máng 1-1,5 m, cao 3-4 cm, có đế vững chắc tránh rơi vãi thức ăn. - Máng tròn có thể bằng nhựa hoặc bằng tôn. - Khay ăn cho gà con kích thước 60 x 80 cm, thân cao 2-3 cm, cho 90-100 gà. * Máng uống: - Máng tròn (gallon) gồm phần đáy và thân lắp vào nhau, làm bằng nhựa, thể tích máng tuỳ theo loại gà. - Máng dài có độ dài tương đương với máng ăn nhưng thiết diện nhỏ hơn. >> tìm hiểu gà đá ăn tiền trực tuyến * Chụp sưởi: gà con sau khi nở chưa có khả năng điều tiết thân nhiệt, do đó phải có hệ thống lò sưởi để cung cấp nhiệt độ cho gà đến khi chúng có khả năng điều tiết được thân nhiệt phù hợp nhiệt độ môi trường. Có thể sưởi bằng điện (dây mayso và chụp sưởi) hoặc bằng đèn hồng ngoại. Tuỳ theo số lượng gà con 1 ngày tuổi, nhiệt độ chuồng nuôi mà bố trí hệ thống sưởi cho hợp lý. * Rèm che: dùng vải bạt che bên ngoài lưới thép để giữ nhiệt độ chuồng nuôi và tránh gió lùa hoặc có thể dùng cót ép hay phên liếp. * Quây gà: làm bằng cót ép, tấm nhựa hoặc lưới sắt, chiều cao 50-60 cm, đường kính 1,5-2 m. Quây gà dùng để úm gà con trong 14 ngày đầu. Tốt nhất mỗi quây như vậy có thể nhốt 100-130 gà con một ngày tuổi, không nên nuôi nhiều vì nếu gà bị đè, dồn đống sẽ gây chết nhiều. * Độn chuồng: phải có khả năng hút ẩm, có thể dùng phoi bào, trấu, cỏ khô hoặc rơm khô băm nhỏ. Chất độn chuồng phải được phơi khô, phun sát trùng bằng foocmol 2%. >> tìm hiểu đá gà campuchia ăn tiền hấp dẫn Giai đoạn gà con được tính từ 1-49 ngày tuổi, ở giai đoạn này các cơ quan phủ tạng nhất là bộ máy tiêu hoá chưa hoàn thiện, dạ dày cơ chưa tiêu hoá được các loại thức ăn xơ cứng, men tiêu hoá chưa đầy đủ, đặc biệt thời kỳ gà con rất nhạy cảm với điều kiện bên ngoài vì vậy phải tạo điều kiện tốt để gà phát triển nhanh và khoẻ mạnh. 1.2. Chọn gà con giống: Chọn những con nhanh nhẹn, mắt sáng, lông bông, bụng gọn, chân mập, khối lượng gà con 20 - 22 g là đạt yêu cầu. Tránh chọn những con khô chân, vẹo mỏ, khèo chân, hở rốn. |
Bài viết theo tháng
September 2019
Tất cả bài viết |